Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái........gia gia /da đa /đa đa
Cái “gia gia” chẳng là… cái gì cả!
Xin khẳng định ngay một cách dứt khoát rằng nếu viết với gi- thành “gia gia” thì “cái gia gia” sẽ là một cấu trúc hoàn toàn vô nghĩa. Các nhà có uy tín kia đã không biết, hoặc ít nhất cũng không để ý, rằng ba tiếng cuối của câu 5 (con X X) và ba tiếng cuối của câu 6 (cái Y Y) trong bài thơ tạo thành hai ngữ danh từ chỉ hai giống chim chứ hai tiếng cuối của mỗi câu (mà họ viết thành “quốc quốc” và “gia gia”) tuyệt đối không phải là những từ tượng thanh (onomatopoeia). Ở đây Bà Huyện nói về hai giống chim, như ai nấy đều có thể biết một cách hoàn toàn dễ dàng và tự nhiên: con trong câu 5 thì đau lòng vì nhớ nước còn con trong câu 6 thì mỏi miệng vì thương nhà. Vậy thì con trong câu 6 là con gì? Thưa đó là con đa đa và chính vì đây là con đa đa nên chúng tôi xin trả lời rằng nếu bất đắc dĩ phải chọn lựa giữa “gia gia” và “da da” thì chúng tôi sẽ chọn cách viết thứ hai vì những lý do sau đây:
Con cuốc
Con đa đa
Ngữ âm học lịch sử đã cho phép khẳng định rằng trong một số trường hợp nhất định thì Đ [d] và D[z] từng có chung một nguồn gốc (Xin x., chẳng hạn, Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb Giáo dục, 1995, tr. 63; hoặc Lê Văn Quán, Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1987, tr.105). Chính vì thế nên cho đến hiện nay, ta vẫn còn thấy được những lưu tích về mối tương ứng “ Đ ~ D ” giữa phương ngữ miền Bắc với phương ngữ miềnNam hoặc giữa phương ngữ Bắc Trung bộ với ngôn ngữ toàn dân. Cái đĩa ở miền Bắc là cái dĩa ở trong Nam; còn cây da ở trong Nam thì miền Bắc lại gọi là cây đa. Đặc biệt, cái bánh đa ở ngoài Bắc đã từng được gọi là bánh da ở trong Nam (còn bây giờ đã được thay bằng “bánh tráng”). Bằng chứng sớm nhất mà ta có thể có được về cách gọi này ở trong Nam là mục từ “bánh da” trong Dictionarium Anamitico Latinum (1772-1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine, rồi sau đó là mục từ cùng tên, trong quyển từ điển cũng cùng tên (1838) của J.L. Taberd. Nhưng có lẽ lại càng đầy tính thuyết phục hơn nữa là cho đến 1895, Huình- Tịnh Paulus Của vẫn còn giảng trong Đại Nam quấc âm tự vị, tome I: “Bánh da: Bánh tráng.”
Trở lên là nói về mối quan hệ “ Đ (Bắc) ~ D (Nam)”. Còn về quan hệ giữa Đ của Bắc Trung bộ với D của tiếng Việt toàn dân thì ta cũng có thể tìm thấy trong Phương ngữ Bình Trị Thiên của Võ Xuân Trang (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997) rất nhiều dẫn chứng: - đa đẻ ~ da dẻ, - (màu) đà ~ (màu) dà, - đạ đày ~ dạ dày, - đám ~ dám (trong dám nghĩ dám làm), - đao ~ (con) dao, - đày ~ dày (trong dày mỏng),v.v..
Trở lại với mối tương ứng “ Đ (Bắc) ~ D (Nam)”, ta đã có “ đa (Bắc) ~ da (Nam)” đến hai lần, một lần với tên của một giống thực vật, một lần với tên của một loại thực phẩm. Nguồn gốc chung của hai cách phát âm này đã tồn tại trong Từ điển Việt – Bồ – La (Roma, 1651) của Alexandre de Rhodes. Trong quyển từ điển lấy tiếng Đàng Ngoài làm nền tảng này, cả da trong da thịt lẫn đa trong cây đa (của miền Bắc) đều được ghi là da. Vậy nếu mượn cách ghi của A. de Rhodes làm ký hiệu, ta có thể nói rằng trước 1651 thì, đối với những từ đang xét, tiền thân của Đ và D đều là DE. Chính vì mối quan hệ này giữa Đ và D nên chúng tôi mới chủ trương viết da da (chứ không phải “gia gia”) để ghi tên con đa đa, nếu bất đắc dĩ phải lựa chọn. Nhưng với chúng tôi thì chữ của Bà Huyện Thanh Quan cũng không phải “da da” mà hẳn hoi là đa đa. Và hai câu thơ đang xét trong bài Qua Đèo Ngang là:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái đa đa.
Chúng tôi chủ trương như trên còn bà Nguyễn Thị Chân Quỳnh thì không tán thành nên đã viết trên Hồn Việt 18 (12-2008) như sau:
“Tôi không đồng ý vì tuy bà (Huyện Thanh Quan- AC) người miền Bắc nhưng chắc gì bà biết hết tên các loài chim để mà đổi “da da” thành “đa đa”, theo phát âm của người miền Bắc? Bà đi qua Đèo Ngang nghe tiếng chim hót thì hỏi dân địa phương, người ta bảo là “da da” thì bà gọi theo là “da da” chứ bà không biết quốc ngữ cũng không học ngôn ngữ học nên không thể biết “d” và “đ” cùng một gốc. Mặt khác, bà thành thạo làm thơ thất ngôn bát cú có đối chọi nên có thể đã “chơi chữ” với cách phát âm tên hai loài chim, “quốc” hay “cuốc”, “da” hay “gia” bà không phân biệt được.” (tr.61).
Xin trân trọng thưa lại với bà Chân Quỳnh như sau. Xưa nay, khắp nước Việt Nam, không có địa phương nào gọi con đa đa, còn có tên là gà gô, bằng cái tên “da da” cả. Từ điển Việt- Bồ- La (1651) của A. de Rhodes lấy tiếng miền Bắc làm nền tảng, Dictionarium Anamitico Latinum (1772-1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine lấy tiếng miền Nam làm nền tảng, rồi phương ngữ Bắc Trung Bộ là nơi còn lưu giữ nhiều yếu tố cổ xưa, đều ghi hoặc gọi là đa đa. Tiếng Nguồn ở Quảng Bình, một ngôn ngữ cùng gốc (Việt-Mường) với tiếng Việt (Kinh), cũng gọi giống chim này là đa đa. Đây là một bằng chứng chắc chắn để phủ nhận hai tiếng/chữ “da da”. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai là ai cũng biết, tuy về hình thức, Qua Đèo Ngang có những câu thơ tả cảnh nhưng thực chất đây là một bài thơ trữ tình. Làm thơ trữ tình thì “rút gan rút ruột” ra mà làm chứ còn đợi đi hỏi ai. Điểm thứ ba là, không riêng gì Bà Huyện, mà cả ông bà ta ngày xưa nữa, tuy không biết chữ quốc ngữ, cũng không học “ngôn ngữ học”, nhưng vẫn có cách để phân biệt d- với gi-, d- với r-, ch- với tr-,v.v., trong khi sáng tạo chữ Nôm. Đó là ngôn ngữ học “tự nhiên nhi nhiên”của họ đấy! Điểm thứ tư là con cuốc cuốc và cái đa đa, theo cách hiểu và cách ghi của chúng tôi, cũng rất “đối chọi” theo đúng luật thơ Đường chứ đâu phải là không. Đối nhau chan chát ấy đi chứ! Và cuối cùng là tuy Bà Huyện có quyền “chơi chữ” nhưng bà không được quyền bóp méo từ ngữ: cái đa đa là cái đa đa, chứ dứt khoát không thể thành “cái da da”, càng không thể là “cái gia gia”.
Đèo Ngang
Tiếp theo ý kiến của bà Nguyễn Thị Chân Quỳnh, trên Hồn Việt 19 (01-2009), ta lại thấy xuất hiện ý kiến của ông Nguyễn Quảng Tuân với lời dẫn của ban biên tập: “Học giả An Chi (…) bằng vốn kiến thức ngữ học uyên bác của mình, đã bàn về gia gia- quốc quốc. Nhưng đây không phải là chuyện ngữ âm học lịch sử thuần tuý, mà là thơ, lại là thơ luật Đường… nên học giả Nguyễn Quảng Tuân đưa ra một cách tiếp cận khác.” Vậy đâu là “cách tiếp cận khác” của ông Nguyễn Quảng Tuân? Ông chẳng đưa ra cách tiếp cận nào khác của riêng mình cả. Ông chỉ dẫn ra ý kiến của Nguyễn Văn Ngọc trong Nam thi hợp tuyển và của Lý Văn Hùng trong Việt Nam văn chương trích diễm (Sài Gòn, 1961) rồi kết luận: “Chúng tôi nhận thấy, như mọi người từ trước đến nay, kể cả các vị có uy tín, đều cho rằng “quốc quốc” và “gia gia” chỉ là một cách chơi chữ thôi nên hai câu luận trong bài Qua Đèo Ngang tức cảnh của Bà Huyện Thanh Quan nên chép là:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
cho thích hợp với ý văn và phép đối trong câu thơ thất ngôn bát cú.”
Trở lên là “cách tiếp cận khác” của ông Nguyễn Quảng Tuân còn dưới đây là nhận xét của chúng tôi, trước nhất là về phần ông trích dẫn Lý Văn Hùng, đặc biệt là về lời dịch của họ Lý đối với hai câu thơ đang xét. Hai câu này đã được Lý Văn Hùng dịch thành:
Ưu quốc thương hoài hô quốc quốc
Ái gia quyện khẩu khiếu gia gia
Dụng ý của ông Nguyễn Quảng Tuân là dựa vào mấy tiếng “gia gia” của họ Lý để củng cố cho cách chép mà ông đưa ra trong phần kết luận. Nhưng ông đã nhầm. Hai cấu trúc con quốc quốc và cái gia gia (Xin cứ tạm chép như thế) trong lời thơ của Bà Huyện là những ngữ danh từ, trong đó quốc quốc và gia gia là danh từ (vì là tên của hai giống chim), còn hai cấu trúc hô quốc quốc và khiếu gia gia trong lời dịch của Lý Văn Hùng là những ngữ vị từ, trong đó quốc quốc và gia gia là từ tượng thanh. Hai bên đã khác nhau một trời một vực như thế mà ông lại muốn lấy hai tiếng tượng thanh gia gia để chứng minh cho sự đúng đắn(?) của danh từ “gia gia” trong câu thơ tiếng Việt sao được? Việc ông Nguyễn Quảng Tuân trích dẫn Lý Văn Hùng ở đây là một việc làm không thích hợp vì hoàn toàn không có tác dụng “làm chứng” cho hai tiếng “gia gia” (tiếng Việt) mà ông chủ trương.
Còn việc trích dẫn Nguyễn Văn Ngọc thì sao? Cũng chẳng có giá trị gì hơn vì tác giả này cũng chỉ diễn giảng trên cơ sở của hai tiếng “gia gia” là hai tiếng mà chính chúng tôi đang phản bác. Chỉ khi nào Nguyễn Văn Ngọc chứng minh được rằng “gia gia” là một cái tên có thật của một giống chim và là một hình thức chính tả chuẩn dùng để ghi cái tên đó thì chừng đó những lời diễn giảng của ông may ra mới có giá trị. Xin nói cho rõ thêm một chút nữa như sau. Chỉ khi nào chỉ với hình thức chính tả “gia gia” mà tác giả vừa chỉ được giống chim cần nói đến, lại vừa chỉ được khái niệm “nhà cửa”, “gia đình” thì chừng đó ta mới thực sự có hiện tượng chơi chữ. Đằng này… người ta phải bóp méo từ ngữ để cho có thể có được một cái âm với một cách ghi gợi lên cái ý “nhà” thì chơi chữ là chơi… như thế nào? Cách ghi méo mó này không có bất cứ lý do ngữ học và văn cảnh nào để tồn tại cả.Chẳng qua vì nó đã lưu hành ngót nghét hằng thế kỷ nên nhiều người mới không đành lòng gạt bỏ đó mà thôi. Nhưng cũng có người không cần biết đến nó mà cứ ghi thẳng hai chữ đa đa vào câu thơ của Bà Huyện, chẳng hạn GS Đỗ Quang- Vinh trên www.khoahoc.net (ngày 26.4.2007). Các nhà có uy tín kia đã bị cái thế đối “quốc quốc - gia gia” mơn trớn và ru ngủ nên cũng chẳng cần biết rằng từ vựng tiếng Việt không hề có danh từ “gia gia” với tính cách là tên của một giống chim mà hệ động vật của Việt Nam cũng chẳng có giống chim nào tên là “gia gia”.Tóm lại, ta tuyệt đối không thể có “ý văn” hay nếu nó được diễn giảng từ những từ ngữ bị bóp méo.Chơi chữ mà lại bóp méo từ ngữ thì còn chơi cái gì?
Cuối cùng xin nói cho rõ ràng rằng chúng tôi đã không hề bàn đến hai tiếng đa đa (da da, gia gia) với tính cách là một hiện tượng ngữ âm lịch sử thuần tuý. Ở đây, ngữ âm học lịch sử chỉ là một phương tiện. Nên nhớ rằng văn học có một mối quan hệ khăng khít với ngữ học. Điều này, các chuyên gia đã nói đến từ lâu.
( Nguồn dẫn: Sông Cửu Long; http://vannghesongcuulong.0rg.vn)
Tác giả: An Chi)
Hãy Tham gia vào cuộc thảo luận này!