Những đóng góp mới của công trình "Đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy" , về mặt lí luận, sẽ có ảnh hưởng đến sự phát triển các quan niệm lí thuyết ngôn ngữ học hiện đại, có giá trị thực tiễn đối với nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong lĩnh vực giảng dạy và còn có ý nghĩa không nhỏ đối với việc tìm hiểu và xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
NHỮNG PHÁT HIỆN MỚI CỦA CÔNG TRÌNH
"Đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy"
( Tác giả : GS.TS Nguyễn Đức Tồn, Tái bản có chỉnh lý và bổ sung,
Nxb Từ điển Bách khoa, H., 2010, 635 trang)
TS. Vũ Thị Sao Chi
Trưởng Phòng Phòng Biên tập - Trị sự tạp chí “Ngôn ngữ”
Cuốn sách “Đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy” củaGS.TS Nguyễn Đức Tồn là chuyên khảo mở đầu ở Việt Nam đi sâu nghiên cứu đặc trưng văn hoá dân tộc của ngôn ngữ và tư duy của các dân tộc. Chuyên khảo đã được sử dụng làm Giáo trình giảng dạy sau đại học cho các cơ sở đào tạo: Khoa Ngôn ngữ học,Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Khoa Ngữ văn Trường Đại học sư phạm, Đại học Thái Nguyên; Khoa Ngữ văn Trường Đại học Hải phòng; Khoa Khoa học Xã hội Trường Đại học Hồng Đức Thanh Hoá; Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Khoa học Huế. Cho đến nay, sau nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy, tác giả đã có những nhận thức mới về mặt quan điểm khoa học và nhiều kết quả mới đạt được trong lĩnh vực nghiên cứu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy dân tộc. Chính vì vậy, lần tái bản này tác giả đã có sự chỉnh lý nhất định, bổ sung nội dung để phục vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy được tốt hơn và cập nhật hơn.
Những đóng góp to lớn cũng có thể được coi là những phát hiện mới mang tính cách mạng trong ngôn ngữ học của công trình này là những điểm sau đây :
1)Lần đầu tiên tác giả đề xuất một hệ vấn đề cùng với các phương pháp giải quyết tương ứng để nghiên cứu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở một dân tộc(đây chính là các nhiệm vụ nghiên cứu của công trình).
2) Trên cơ sở ngữ liệu thực tế hoạt động nói năng và kết quả thực nghiệm liên tưởng, công trình đã chứng minh và chỉ ra hai loại hình tư duy ở trình độ cao nhất và điển hình nhất của các dân tộc hiện nay nói chung, ở người Nga và người Việt nói riêng, đó là loại hình tư duy thiên về tư duy lôgic, hay tư duy phạm trù (ở người Nga) và loại hình tư duy thiên về tư duy hình tượng, hay tư duy cảm giác, hành động, trực quan(ở người Việt)(tương tự như trong loại hình học định lượng có: ngôn ngữ thiên về loại hình đơn lập, phân tích tính và ngôn ngữ thiên vềloại hình khuất chiết, tổng hợp tính…)(trang 516). Đặc biệt, tác giả đồng thời cũng đưa ra phương pháp cụ thể tính được hệ số tương quan tư duy giữa các dân tộc(trang 78-81), giữa nam giới và nữ giới(trang554-560).
3) Tác giả công trình đã phân tích và chỉ ra một cách đúng đắn và có sức thuyết phục sai lầm do lẫn lộn giữa hai bình diện nhận thức và bản thể trong nguyên lí võ đoán của kí hiệu ngôn ngữ do F.de Saussure đưa ra. Đây là một trong những luận thuyết vốn đang có sự tác động và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển lí thuyết của ngôn ngữ học cấu trúc hiện đại. Từ đó công trình đã chỉ ra cội nguồn tính có lí do của mối liên hệ giữa "cái biểu hiện" và "cái được biểu hiện" của những tín hiệu ngôn ngữ đầu tiên ở người nguyên thủy khi vừa thoát thai khỏi thế giới động vật. Đó là mối liên hệ phản xạ có điều kiện theo học thuyết của I.P. Paplôp. Tính có lí do của các tín hiệu ngôn ngữ có sau này được giải thích qua tín hiệu ngôn ngữ khác khi ngôn ngữ của loài người đã phát triển cao (kiểu như lí do được giải thích bằng hiện tượng chuyển nghĩa của từ, theo cấu tạo từ, sự biến đổi vỏ ngữ âm của từ...) đều là lí do phái sinh(trang 188-193).
3) Công trình đã đưa ra được lời giải đáp xác đáng và biện chứng về một vấn đề vốn đã được tranh luận từ thời cổ đại của HyLạp và Trung Quốc mà cho đến nay vẫn chưa ngã ngũ - đó là các thuyết phúsei và thései, thuyết duy thực và duy danh bàn về vấn đề tên gọi có phản ánh bản chất của sự vật hay không.Theo công trình của GS Nguyễn Đức Tồn đã chỉ ra, không phải tên gọi của một sự vật luôn luôn phản ánh bản chất sự vật(theo thuyết phúsei hoặc duy thực) hay luôn luôn không phản ánh bản chất của sự vật(theo thuyết thései hoặc duy danh). Cũng không phải cứ danh từ chung thì phản ánh bản chất sự vật còn danh từ riêng thì không. Theo GS Nguyễn Đức Tồn thì tuỳ theo trường hợp cụ thể lí do được chọn để làm cơ sở định danh (hay để đặt tên gọi) cho sự vật là loại lí do nào - lí do khách quan hay lí do chủ quan - mới có thể khẳng định tên gọi có phản ánh bản chất của sự vật, hiện tượng hay không. Nếu đây là lí do khách quan(tức đặc điểm vốn có nào đó của sự vật được chọn làm cơ sở gọi tên, tạo thành hình thái bên trong của tên gọi) thì tên gọi này sẽ phản ánh bản chất hay một phần bản chất của sự vật(ví dụ:(chim) chích choè, quạ, (lão) Móm, (con chó) Cộc...). Nếu như lí do gọi tên này là lí do chủ quan của người đặt tên thì tên gọi sẽ không phản ánh bản chất sự vật. Giữa hai loại tên gọi này có thể có sự chuyển hoá lẫn nhau (trang 168- 182).
4) Tác giả công trình đã đưa ra quan niệm hay cách nhìn mới về bản chất của ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận trong mối quan hệ với hoán dụ. Theo quan niệm xưa nay, ẩn dụ là phép / sự thay thế tên gọi của các sự vật, hiện tượng...dựa trên sự giống nhau, còn hoán dụ là phép / sự thay thế tên gọi của các sự vật, hiện tượng...dựa trên sự tương cận. Theo công trình của GS Nguyễn Đức Tồn thì bản chất của ẩn dụ là sự thay thế tên gọi của các sự vật, hiện tượng...dựa trên sự đồng nhất chúng khi tư duy nhận thấy ở chúng có cùng một đặc điểm nào đó. Còn bản chất của hoán dụ thì cũng là sự thay thế tên gọi của các sự vật, hiện tượng...dựa trên sự đồng nhất chúng khi chúng luôn luôn xuất hiện cùng nhau, bên nhau, cặp đôi với nhau trong không gian hoặc thời gian , có cái này thì cũng có cái kia, khiến có thể lấy một trong hai cái để đại diện thay thế cho cái còn lại(trang 486 và 508).
Còn nói về ẩn dụ tri nhận thì theo ngôn ngữ học tri nhận, "Với cách tiếp cận chung nhất, ẩn dụ được xem như là cách nhìn một đối tượng này thông qua một đối tượng khác, và với ý nghĩa đó, ẩn dụ là một trong những phương thức biểu tượng tri thức dưới dạng ngôn ngữ. Ẩn dụ thường có quan hệ không phải với những đối tượng cô lập riêng lẻ, mà với những không gian tư duy phức tạp(những miền kinh nghiệm cảm tính và xã hội). Trong quá trình nhận thức, những không gian tư duy không thể quan sát trực tiếp này thông qua ẩn dụ xác lập mối tương quan với với những không gian tư duy đơn giản hơn hoặc với những không gian tư duy có thể quan sát được cụ thể(chẳng hạn, cảm xúc của con người có thể so sánh với lửa, các lĩnh vực kinh tế và chính trị có thể so sánh với các trò chơi, với các cuộc thi thể thao, v.v…"(Trần Văn Cơ, Khảo luận ẩn dụ tri nhận, NXB Lao động - Xã hội, 2009, tr.86-87).
Theo GS Nguyễn Đức Tồn, bản chất của ẩn dụ tri nhận là loại suy trên cơ sở hai hiện tượng được đồng nhất hoá: nếu hiện tượng A( mang tính cụ thể, có thể quan sát được) được đồng nhất với B ( mang tính trừu tượng, không thể quan sát trực tiếp) do tư duy nhận thấy chúng cùng có một / những đặc trưng nào đó thì tất cả những gì nói về A đều có thể loại suy sang nói về B. Ví dụ : Trên cơ sở đồng nhất: thời gian (trừu tượng) là tiền bạc(cụ thể), có thể loại suy chuyển các đặc điểm của tiền bạc sang thời gian, trên cơ sở đó có thể chuyển các cách nói về tiền bạc sang nói về thời gian, chẳng hạn: tiết kiệm tiền bạc/thời gian, chi phí tiền bạc / thời gian...(trang 492 và 499-500).
5) Công trình chỉ ra sai lầm trong nhận thức về nghĩa và cấu trúc nghĩa của từ của các lí thuyết gia về ngữ nghĩa học. Người ta đã lẫn lộn nghĩa của từ với lời giải thích nghiã của từ, từ đó cho rằng nghĩa từ là một cấu trúc tuyến tính, gồm các nét nghĩa và giữa các nét nghĩa này có quan hệ cấp bậc, quy định lẫn nhau. Công trình của GS Nguyễn Đức Tồn chỉ ra rằng nghĩa từ là hiện tượng tâm lí, xuất hiện trong đầu mỗi người khi nghe hoặc đọc một từ. Nghĩa của từ chỉ có thể cảm nhận được tự mỗi người, còn khi giải thích ra thành lời thì đó chỉ là cách diễn giải một cách hiểu cụ thể của một người về nghĩa của từ mà thôi. Do vậy nghĩa của từ nếu có cấu trúc thì đây là cấu trúc phi tuyến tính. Có thể mô hình hoá cấu trúc ấy giống như cấu trúc của hạt nhân nguyên tử bằng các vòng tròn đồng tâm, trong đó vòng tròn trung tâm gồm các nét nghĩa phản ánh các đặc trưng bản chất thuộc bản thể của sự vật, hiện tượng được biểu thị, có giá trị khu biệt một sự vật, hiện tượng với các sự vật, hiện tượng khác, còn vòng tròn ngoài chứa các nét nghĩa phản ánh những đặc trưng phụ, không có giá trị khu biệt sự vật, hiện tượng...Có thể đó chỉ là những liên tưởng mang tính đặc thù cá nhân...(trang 182-196 và 441-443).
Những đóng góp mới của công trình "Đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy" được nêu trên đây hiển nhiên có ý nghĩa lí luận và thực tiễn rất lớn. Trước hết, về mặt lí luận, chúng sẽ có ảnh hưởng đến sự phát triển các quan niệm lí thuyết ngôn ngữ học hiện đại ( như học thuyết về kí hiệu ngôn ngữ, về ngữ nghĩa học, về vấn đề ngôn ngữ và tư duy…).
Những đóng góp mới được thể hiện trong nội dung cuốn sách này có giá trị thực tiễn đối với nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, chẳng hạn, trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng của ngôn ngữ trên các phương tiện thông tin đại chúng (như: báo chí, đài phát thanh, truyền hình, điện ảnh, v.v…, và trong công tác thông tin tuyên truyền); trong lĩnh vực giảng dạy văn hoá học và lí luận ngôn ngữ học, giảng dạy tiếng Việt trong nhà trường ở bậc phổ thông cũng như ở bậc đại học .
Đặc biệt, cuốn sách còn có ý nghĩa không nhỏ đối với việc tìm hiểu và xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc để góp phần vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.